TU SĨ LINH MỤC
TÔMA NGUYỄN NHƯ THÀNH - CP
(06/10/1978 - 13/07/2025)
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU.
Đời tu dưới mọi hình thức đều lấy việc "Theo chân Chúa Kitô" như Tin Mừng đề nghị làm quy luật tối thượng. Thế nhưng việc họa lại chân dung đấng Cứu Thế trong những hoàn cảnh đặc thù và những giai đoạn riêng biệt, đã làm nảy sinh rất nhiều những hình thức cộng đoàn tu trì.
Quả thật, tu cũng có nhiều lối ví như muôn cánh hoa trăm hương nghìn sắc, đua nở trong vườn hoa Hội Thánh. Trong tập “Dấu Ấn 350 năm”, tại Việt Nam hiện có 124 đơn vị tu trì, gồm 21 đan viện, 23 tỉnh dòng hoặc miền dòng thuộc Tòa Thánh, 50 dòng giáo phận, 29 tu hội và tu đoàn… (1)
I. THEO HƯỚNG NHÌN THẦN HỌC
Đức Kitô đã đến trong trần gian, Ngài đã sống hòa nhập với môi trường mình đang sống. Hoạt động của Ngài, tuy chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng lại đa dạng. Ngài hiện diện, chia sẻ, Ngài cầu nguyện và rao giảng, Ngài thăm viếng và chữa lành, Ngài huấn luyện và chúc phúc... Cuối cùng, trên Thập Giá, Ngài đã biểu lộ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha, muốn phục sinh toàn nhân loại trong ơn cứu độ, muốn đảm nhiệm tất cả những khó khăn vất vả và những ước mơ hy vọng của con người. Sứ mạng của Ngài là khai mở "năm hồng ân Thiên Chúa" (Lc 4,17-19), và kêu gọi những tâm hồn thiện chí mạnh dạn nối tiếp vào con đường Ngài đã đi (Mt 19,12; Mc 10,21).
Theo hướng nhìn thần học, sự xuất hiện một Dòng Tu thường bắt đầu từ một "Hứng Khởi Nền Tảng" của vị sáng lập, trong từng hoàn cảnh lịch sử, để chọn lựa một tính chất hoặc phần vụ riêng biệt cho tập thể của mình, nhưng luôn mưu ích cho giáo hội (PC 2b). Nên tuy cũng là việc hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa và tha nhân, nhưng lại được thể hiện bằng muôn ngàn cách thế hiện diện, mong họa lại một đôi nét riêng biệt trong toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu.
Giáo hội vẫn coi thành quả đó do ơn thúc đẩy và hướng dẫn của Chúa Thánh Linh (LG 43) nhằm góp phần giúp giáo hội chu toàn sứ mạng xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô. Hội Thánh, chính là những "Đoàn Sủng", như đã được thánh Phaolô đề cập trong thơ I Côrintô : “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin ; kẻ thì được … ban những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri ; kẻ thì được ơn phân định thần khí ; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người (I Cr 12, 8-11).
Tiếp đến, để xác định rõ hướng đi của mình, mỗi Dòng Tu đều có một Quy Chế hay bản Hiến Luật riêng. Bản văn ấy sẽ trình bày về mục đích, tinh thần, bản chất, hoạt động mà mình chọn, cùng với những quy định về tổ chức và đào tạo. Khi Hiến Luật ấy được thẩm quyền giáo hội châu phê và công bố (Giám mục với Dòng giáo phận, Đức Thánh Cha với Dòng quốc tế), một Dòng Tu được chính thức thành lập.
Nếu theo quy định của Giáo Luật, tu sĩ là người tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm : khiết tịnh, vâng lời và khó nghèo (GL 57,3-2) thì hơn thế nữa, họ phải trung thành với đoàn sủng của Dòng Tu mình chọn và có trách nhiệm trước những nhu cầu cụ thể của con người thời đại. Chính vì thế, các Dòng Tu luôn phải canh tân Hiến Luật của mình theo ba hướng : trở về Tin Mừng là nguồn phát sinh nếp sống Kitô hữu, trung thành với đoàn sủng của Dòng và thích ứng với hoàn cảnh mới của thời đại (PC 2).
Nhờ sự mạnh dạn canh tân này, người tu sĩ qua các thời đại, không ngừng khám phá ra những cách thế để đóng góp muôn ngàn bàn tay, khối óc và con tim, chung phần với tất cả mọi công dân trên trái đất. Đời tu, đặc biệt dưới ánh sáng của công đồng Vaticano II, không coi mình là bậc sống riêng biệt, mà chỉ là đi sâu hơn vào hiến lễ của bí tích thanh tẩy (PC 5), vào ơn gọi "vì Chúa dấn thân phục vụ".
II. ĐỜI TU QUA DÒNG LỊCH SỬ
Người tu, dù sống dâng hiến, vẫn không xa lạ với "người đời". Họ vẫn là những con người "mang nặng nơi con tim, những gì thực sự là của con người" (GS 1). Cho nên đời tu cũng hòa nhập và chịu tác động qua lại với môi sinh, mà đặc biệt là những biến động trong lịch sử loài người. Vì thế, nếu xét đời tu như là một hiện tượng xã hội, ta có thể khái quát những chặng đường lịch sử, trên đó, đời tu xuất hiện qua những phương thế hiện diện góp phần tô thắm cho cuộc đời.
2.1 Từ ẩn tu đến đan viện Trung Cổ
Nếu từ ngày Giáo Hội sơ khai đã đề cao những người sống độc thân vì Nước Trời theo gương và giáo huấn của Đức Kitô và thánh Phaolô (Mt 19,12; I cr.7,25t), thì phong trào tu trì chỉ thực sự phát triển vào khoảng năm 313, khi chiếu chỉ Milan của vua Constantin cho Giáo Hội được tự do. Khi đó Kitô giáo vượt qua cơn gian nan, từ các hầm mộ khải hoàn tiến vào điện Panthéon. Một đàng, giáo hội khoác thêm tấm áo bào lộng lẫy, đàng khác, quá nhiều người nhập đạo mà không được chuẩn bị kỹ lưỡng. Sự sa sút về đời sống đạo đức đó thúc đẩy ngày càng nhiều tín hữu xa lánh vòng cương tỏa của trần gian để vào ẩn tu trong rừng hoặc sa mạc.
Những vị ẩn sĩ như thánh Antôn, khởi từ ước vọng sống hoàn thiện, đã làm cuộc mạo hiểm của niềm tin, vì ra đi mà không đoán được tương lai sẽ thế nào. Nhưng dần dà, số lượng ẩn sĩ gia tăng đã nối kết họ thành những tập thể ẩn tu, hoặc quy tụ quanh một ẩn sĩ nỗi tiếng, hoặc chấp nhận một kỷ luật tập thể mới theo thánh Pacôme hay thánh Basiliô.
Thế nhưng, ngay từ giai đoạn này, việc "cách ly xã hội" của những ẩn sĩ, với thời gian, lại giống như một cuộc hành trình để hiệp thông với xã hội một cách khác hơn : họ đã nối kết với nhau thành xã hội mới của nước trời, họ đón tiếp mỗi ngày các khách hành hương đến xin lời chỉ giáo, và nếu cần (như thánh Antôn) họ trở về thành phố một thời gian để giúp đỡ anh em mình.
Với thánh Biển Đức, đời tu biến chuyển sang một giai đoạn mới. Trong hoàn cảnh Roma sụp đỗ, man dân xâm lăng, văn hóa suy đồi... các đan viện từ nay được coi như trụ điểm để có thể tái tạo lại xã hội. Bằng lời khấn "vĩnh cư", người đan sĩ chọn đan viện làm quê hương để gắn bó với nhau suốt đời. Dần dần họ đưa ra một khuôn mẫu cấu tạo xã hội tương lai đang thành hình. Mỗi đan viện đều trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa và xã hội. Đan viện là trường học, là nơi cứu tế xã hội, là trung tâm quy tụ các tín hữu. Nhiều thành phố mới được hình thành quanh đan viện. Nhiều đan sĩ với uy tín của mình, lãnh nhận những chức vụ trong xã hội và trong giáo hội. Ảnh hưởng của các vị mạnh đến nỗi trở thành Kitô hữu lý tưởng. Người giáo dân đạo đức là người mô phỏng gần giống với đời tu đan sĩ: ăn chay, đánh tội và xa lánh trần gian.
Với tổ chức của Cluny (910) và Xitô (1098), Dòng Tu quốc tế xuất hiện, với một nhà Mẹ chỉ huy nhiều đan viện. Cao điểm của Cluny là 1450 đan viện (năm 1100) và của Xitô là 700 đan viện (năm 1200). Nhiều đan sĩ được chọn làm đặc sứ Tòa Thánh, với ơn miễn trừ, hoạt động do chỉ thị của giáo hoàng chứ không phải của giám mục, đã trở thành một lực lượng linh hoạt để phục vụ các công tác chung trong Giáo Hội.
2.2 Đến Dòng Tu Tông Đồ
Thế kỷ XII, xã hội Âu Châu có những biến động mạnh, với sự xuất hiện của những thành thị phồn thịnh và các trường đại học. Tiền bạc chiếm địa vị quan trọng và thần học được tranh luận theo đường lối mới. Chính lúc đó, ta thấy xuất hiện những Dòng Tu lấy thành thị làm trung tâm hoạt động. Đó là các Dòng hành khất : Phanxicô (1209), Đaminh (1216), Cát-Minh và Ẩn sĩ Augustin.
Đối lại lòng ham mê tiền bạc, tu sĩ các Dòng này chủ trương sống nghèo. Các vị di động (du thuyết) trong những khung cảnh xã hội mới và dần dần nắm giữ vai trò quan trọng trong nhiều đại học. Bên cạnh quy chế miễn trừ, các Dòng tu mới với tổ chức tập quyền, đã phục vụ rất đắc lực cho giáo hội phổ thế, giữa lúc các quốc gia Âu Châu đang thành hình, các vị là cố vấn cho các triều đình và góp phần không nhỏ cho mối liên hệ liên quốc gia. Các vị này là những sứ giả hòa bình và đã ảnh hưởng rất lớn trong việc soạn thảo các luật lệ tại mỗi miền, tất cả đều phải dựa trên luân lý Kitô giáo.
Bước vào thời Phục Hưng, giáo hội phải đối diện với những vấn đề mới và đa dạng hơn. Đồng thời cánh đồng truyền giáo cũng được mở rộng theo bước chân của các nhà thám hiểm. Các Dòng Hành Khất cũng nhanh chóng có mặt trên miền đất mới, nhưng sự xuất hiện của Dòng Tên (1534) mới thực sự phản ánh tâm tư của con người thời đại. "Tất cả cho Vinh Danh Chúa hơn". Dòng tu mới này đã phản ảnh quyết tâm của nhân loại thời Phục Hưng, nhấn mạnh đến ý chí phục vụ bằng bất cứ phương thế tiến bộ nào, đặc biệt là các ngành khoa học. Ngoài ra, theo quyết định của công đồng Trento về việc mở chủng viện, đây cũng là lúc xuất hiện các tu hội chuyên đào tạo chủng sinh như Xuân Bích.
2.3 Và các Dòng Tu chuyên biệt
Trước một xã hội ngày càng phát triển và phân công chuyên biệt hơn, các Dòng tu chuyên biệt cũng dần dần góp phần phục vụ cho con người. Chẳng hạn như các Dòng : Gioan Thiên Chúa phục vụ tại các bệnh viện (1537), Dòng Đức Bà (1597), Dòng Lasan (1680), Dòng Salêdiêng (1874) ưu tiên cho công tác giáo dục.... Hướng chuyên biệt phục vụ xã hội được đẩy lên cao độ với thánh Vinh sơn Phaolô. Bằng đức tin dũng cảm và lòng yêu tha nhân vô bờ, thánh nhân cùng với thánh nữ Louise Marillac sáng lập hình thức tu hành mới cho các "Nữ Tử Bác Ái" (1633): "Lấy đường phố làm tu viện và người nghèo là đối tượng phục vụ".
Và đó cũng là chủ trương của linh mục L.Clauvet khi lập Dòng Phaolô thành Chartres năm 1694, chuyên việc bác ái. Đang khi Dòng Chúa Cứu Thế (1732) lại hướng hẳn đến giảng tĩnh tâm và những người nghèo ở vùng nông thôn, và nhiều Dòng tu khác đứng ra đảm nhiệm, đào sâu ý nghĩa và cổ võ một việc tôn kính trong giáo hội như : Dòng Thánh Tâm, Dòng Mến Thánh Giá (1670), Dòng Thánh Thể (1856), Dòng Trái Tim Đức Mẹ... Sự hiện diện của mỗi dòng tu này trở thành lời nhắc nhở người Kitô hữu về một "nhu cầu tâm linh" mà họ không được quên lãng.
Hướng chuyên biệt hóa các dòng tu còn được thể hiện bằng một thể thức khác, đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều các dòng tu giáo phận. Vì nếu văn minh thế giới phải tôn trọng văn hóa địa phương, thì chính những Dòng tu địa phương, sẽ tìm ra những cách thế hoạt động hữu hiệu nhất. Công tác của Dòng tu này giới hạn theo không gian, thì bù lại, họ đảm nhiệm bất cứ công tác tôn giáo, xã hội, giáo dục ... mà tha nhân cần đến.
Cuối cùng, trong giai đoạn gần đây, ta thấy sự xuất hiện của những tu hội đời. Trong môi trường xã hội hậu tục hóa, khi thế giới "đời" ngày càng tìm cách thoát ly khỏi ảnh hưởng của đạo, các anh chị em tu hội sống chìm ngay giữa lòng đời. Tuy vẫn tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm, anh chị em không có tu phục riêng, không xây tu viện lớn, đôi khi cũng chẳng cần làm việc tông đổ trực tiếp nào, vì chủ trương "sống chứng tá" như men trong bột hiện diện chan hòa trong mọi môi trường của cõi nhân sinh...
III. TỔNG KẾT
Nhìn lại quá trình xuất hiện và chuyển biến của các phương thức hiện diện trên, không ai có thể phủ nhận tác động của xã hội vào đời tu. Đời tu thoát thai là ẩn sĩ, lớn lên thành đan sĩ, bước vào cuộc đời làm người tông đồ phục vụ, và dần dần đảm nhiệm mọi nỗi âu lo, thao thức, nỗ lực của con người đương thời. Từ lũy cấm đến chan hòa giữa lòng đời. Từ trường học Thiên Chúa để đến với anh em, chuyển qua việc tìm Chúa giữa tha nhân.
Dĩ nhiên, sự xuất hiện những dạng thức tu trì mới không làm giảm giá phương thức hiện diện cũ, nhưng ngược lại, làm nó thêm phong phú hơn lên. Như người đan sĩ, nếu không có hoàn cảnh dấn thân hoạt động tông đồ trực tiếp, thì cánh cửa đan viện cũng được mở rộng thêm ra, và ngay trong lời nguyện mỗi ngày của họ, cũng chất chứa biết bao nỗi trăn trở, ưu tư của con người thời đại.
Những chuyển hóa trên không phải do ngẫu nhiên. Nhưng vì yêu cầu của xã hội đòi hỏi, hay nói cách khác, khi Thiên Chúa vẫy gọi trong cuộc đời thực tế, đời tu phải đáp trả bằng chuyển hóa. Đời tu dấn thân vào xã hội trần thế, góp phần tác động vào xã hội, nhưng đồng thời cũng nhờ xã hội mà tăng tiến và thanh luyện. Do đó, người tu không được quyền "xa lạ với con người và vô tích sự giữa lòng trần thế" (LG 46), trái lại phải luôn can đảm duyệt lại phương thức hiện diện của mình nữa.
Chính vì thế, nếu mỗi Dòng Tu phải trung thành với đoàn sủng của Dòng mình khi tự canh tân, thì đàng khác, họ vẫn có trách nhiệm tham gia vào mọi sinh hoạt, sáng kiến và đề nghị của Giáo Hội đương thời (PC 2c), vẫn có trách nhiệm với môi trường cụ thể mà mình tiếp xúc (PC 2d).
Và
cuối cùng, dù các Dòng Tu đa dạng thế nào đi nữa, tất cả sẽ gặp nhau
trong thái độ "dâng và hiến" chính mình, theo gương Đức Giêsu : theo
đuổi đức ái hoàn hảo trên hành trình phục vụ con người và xây dựng nước
trời.
----------
Các tài liệu công đồng Vatican II sử dụng trong bài gồm :
+ Sắc lệnh về Đời tu Paefectae Caritatis, Đức Ái Hoàn Hảo, PC.
+ Hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, LG
+ Hiến chế Gaudium et Spes, Vui Mừng và Hy Vọng, GS
THỨ TƯ LỄ TRO: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư
Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi
người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro.
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Bài này được viết cho giới trẻ. Lý do là nhiều bạn trẻ thường hỏi về sự khác nhau giữa linh mục triều và linh mục dòng. Đây là câu hỏi thú vị để cho thấy sự phong phú về ơn gọi trong Giáo hội Công giáo.
Trước khi bóc tách vấn đề, chúng ta thấy linh mục là một trong những ơn gọi trong lòng Giáo hội. Khi rửa tội, chúng ta không chỉ trở nên con Chúa, nhưng còn “thừa hưởng” ba ân huệ của Thiên Chúa: tư tế, vương đế và ngôn sứ. Tuy nhiên, những ai được chọn gọi làm linh mục, ân huệ tư tế trở nên nổi bật hơn hẳn. Bởi linh mục là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa cộng đoàn và được thánh hiến theo hình ảnh Đức Kitô – vị thượng Tế vĩnh cửu – nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, để phục vụ dân Chúa. (x. GLHTCG 1564).
Dù là linh mục (priest) triều hay linh mục dòng, cả hai đều là linh mục! Nghĩa là nhờ ấn tín của Bí Tích Truyền Chức Thánh, linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Tư Tế, hành động trong cương vị của Đức Kitô là Đầu (in persona Christi capitis), tham dự vào quyền xây dựng, thánh hóa và cai quản Hội Thánh của Đức Kitô (GLHTCG 1563). Do đó, dù là linh mục dòng hoặc triều, các ngài đều thực sự giống nhau về căn tính. Nhiều người cũng gọi các linh mục là giáo sĩ (cleric). Nhưng giáo sĩ bao gồm những người có chức thánh, trong đó có: phó tế, linh mục và giám mục. Cũng có giáo sĩ triều (saecularis), và giáo sĩ dòng (regularis). Dĩ nhiên dù là giáo sĩ triều hay dòng, họ phải tỏ lòng kính trọng và vâng phục Đức Giáo Hoàng và đấng bản quyền của mình. (x. GLHTCG 273).
Để trở thành một linh mục, cả hai đều phải trải qua giai đoạn huấn luyện lâu dài với rất nhiều tâm huyết. Họ được Thiên Chúa mời gọi để bước vào hàng ngũ tư tế. Vì sự thánh thiêng và quan trọng này, Giáo luật cũng ghi rõ: “Để trao ban chức linh mục hay chức phó tế cách hợp thức, sau khi đã trải qua thời gian thử thách chiếu theo quy tắc của luật, ứng viên buộc phải hội đủ những đức tính thích hợp, theo sự nhận định của Giám Mục riêng hoặc của Bề Trên cấp cao có thẩm quyền, không bị một điều bất hợp luật hay một ngăn trở nào ràng buộc.” (Điều 1025, §1.) Trước mặt Giáo hội, các linh mục phải là người xứng đáng cả về phẩm hạnh lẫn tài năng. Các ngài được huấn luyện để hướng dẫn đoàn chiên. Dù là linh mục dòng hay triều, sứ mạng các ngài dĩ nhiên là đưa đoàn chiên đến gần Thiên Chúa.
Bạn cũng thấy dù linh mục dòng hay triều, cả hai đều phải được Đức Giám mục phong chức. Nghi thức buổi phong chức này giống nhau đến 99 %. Bên cạnh lời hứa vâng phục Đức Giám Mục Giáo Phận giống như linh mục triều, linh mục dòng có thêm lời hứa vâng phục bề trên hợp pháp của dòng mình. Những nghi thức còn lại hoàn toàn giống nhau. Như vậy, trong ngày chịu chức, cả linh mục triều và dòng đều trở thành người rao giảng, và họ phải tin điều họ đọc, dạy điều họ tin và thi hành điều họ dạy.[1]
Ngoài ra, nếu bạn biết một linh mục triều đang coi xứ nào đó, bạn cũng thấy căn tính của linh mục dòng như thế. Cả hai đều đang dấn thân để phục vụ tha nhân. Nhiệm vụ chính của các linh mục là cử hành các bí tích. Họ cũng đọc kinh thần vụ giống nhau, và cầu nguyện thay cho dân Chúa. Do liên hệ chức thánh và phẩm trật, các linh mục hiệp thông với giám mục như là những cộng tác viên và phụ tác của Giám mục trong giáo phận để phục vụ dân Chúa trong nhiều công tác khác nhau. (x. Lumen Gentium 28).
Để kết thúc phần giống nhau, xin được trích lời chia sẻ của Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc: “Là linh mục, dù là linh mục dòng hay linh mục triều, đều là ngôn sứ của Thiên Chúa, là sứ giả của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sai đi để loan báo Tin Mừng; nói điều mà Thiên Chúa muốn nói cho chư dân. Lời Chúa được chính Chúa đặt vào trong tâm trí, vào môi miệng để người linh mục có nói và làm để sống với dân Chúa. Linh mục phải thi hành Thánh Ý Chúa trước, làm gương sáng cho giáo dân noi theo; chăm sóc giáo dân hết sức chu đáo. Linh mục là một cương vị rất cao cả nhưng cũng đầy dẫy những khó khăn. Chính vì thế, phải có sức mạnh từ Chúa Thánh Thần, sức mạnh từ Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho khi Người đã vượt qua thế gian mà về cùng Chúa Cha”[2].
Giáo luật điều 1036 ghi nhận sự khác nhau giữa linh mục triều và dòng như sau: “Để có thể chịu chức phó tế hay chức linh mục, ứng viên phải đệ trình cho Giám Mục riêng hoặc cho Bề Trên cấp cao có thẩm quyền một bản tuyên bố do chính tay mình viết và ký tên, trong đó đương sự xác nhận rằng mình tự nguyện và tự do lãnh nhận chức thánh và sẽ vĩnh viễn dấn thân cho thừa tác vụ của Giáo hội, đồng thời xin được chấp nhận để chịu chức.” Trong luật này, linh mục triều chịu sự chi phối của đức giám mục bản quyền. Giám mục có toàn quyền trên các linh mục triều của mình. Ngược lại, linh mục dòng lại thuộc về một dòng tu của mình. Nơi đó, các linh mục thường dưới sự chi phối của bề trên thượng cấp. Trong cộng đoàn dòng tu, “bề trên thượng cấp là người lãnh đạo toàn thể tu hội, hoặc một tỉnh dòng, hoặc một phần tương đương với tỉnh dòng, hoặc một nhà tự trị, cũng như những người đại diện của các vị ấy.” (Giáo luật 620).
Phải nói ngay rằng chỉ có linh mục dòng mới khấn ba lời khấn dòng (Vows): khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Vì lời khấn này mà chúng ta gọi các linh mục dòng là tu sĩ. “Quả vậy, nhờ lời khấn, họ hiến toàn tâm cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự, họ được hiến dâng một cách tận tình hơn để phụng sự Thiên Chúa, sự tận hiến đó càng hoàn hảo hơn nhờ những mối dây bền chặt hơn, càng biểu dương Đức Kitô hiệp nhất với Hội thánh, Hiền Thê của Người, do một mối dây bất khả phân ly.” (Evangelica Testificatio số 7). Ngoài ra, lời khấn là một lời hứa, đã suy xét và tự do đoan thệ với Chúa, tự buộc mình theo nhân đức thờ phượng, vào một việc lành có thể làm và hoàn hảo hơn do hiệu lực đức thờ phượng. Nội dung của lời khấn là một điều hứa quyết định với ý thức, quyết định mình phải làm điều gì và phải tránh điều gì mà ta đã bày tỏ với Thiên Chúa, do đó buộc phải trung thành. Hẳn nhiên các linh mục triều cũng được mời gọi sống khiết tịnh (độc thân) và vâng phục. Khó nghèo không được nhắc đến nhiều trong đời sống của linh mục triều[3], nhưng để nên giống Chúa Giêsu, các linh mục triều cũng ước sống thanh bần khiêm hạ.
Vì là tu sĩ, nên các linh mục dòng thường sống trong cộng đoàn; trong khi đó các cha triều thường sống một mình tại giáo xứ của mình. Cha triều trực thuộc quyền hành của giám mục địa phận. Còn linh mục dòng cũng dấn thân phục vụ theo bài sai của bề trên. Khi đó, Giáo luật điều 680 nhận xét rằng: “Giữa các tu hội dòng với nhau cũng như giữa các tu hội với hàng giáo sĩ triều, phải cổ vũ một sự cộng tác có tổ chức cũng như cộng tác mọi việc và mọi hoạt động tông đồ, dưới sự chỉ đạo của Giám Mục giáo phận, miễn là vẫn phải tôn trọng đặc tính và mục đích của mỗi hội dòng và các luật tặng lập.”
Với Giáo luật trên đây, chúng ta thấy tùy linh mục ấy thuộc dòng nào, mà đường hướng mục vụ của linh mục ấy ghi đậm dấu ấn linh đạo của nhà dòng. Chẳng hạn linh mục Dòng Tên hẳn là có đôi chút khác biệt về cách mục vụ so với Dòng Đa Minh hoặc Dòng Chúa Cứu Thế. Giáo xứ Dòng Phanxicô chắc cũng hơi khác với giáo xứ Dòng Ngôi Lời. Các giáo xứ Dòng lại càng khác so với các giáo xứ triều. Sự khác biệt này làm nên sự phong phú về đường hướng mục vụ trong Giáo hội. Nếu bạn phân biệt được linh mục triều và dòng, nghĩa là bạn cũng biết mỗi linh mục sẽ có chút khác nhau.
Nhưng nét khác biệt nhất trong mục vụ của linh mục dòng, đó là không nhất thiết phải chăm sóc xứ đạo. Trong khi đó, cha triều thường phải quản xứ. Sự khác biệt này biểu hiện rõ khi các linh mục dòng thường được huấn luyện để hướng đến những sứ mạng cụ thể như: truyền giáo, tông đồ xã hội, giáo dục, giới trẻ, bệnh viện, v.v. Trong khi đó cha triều rất giỏi về quản trị giáo xứ và thường lưu trú tại một giáo xứ trong thời gian lâu dài. Cha dòng thì có tính lưu động cao hơn.
Kể ra một vài nét khác nhau như thế để cho thấy Thiên Chúa khéo an bài gửi những linh mục khác nhau đến với đoàn chiên. Nếu ai cũng là cha triều cũng chắn, hoặc nếu toàn là linh mục dòng thì lấy ai chăm sóc giáo xứ địa phương. Tạ ơn Chúa vì sự phong phú trong ơn gọi linh mục này.
Nếu là người nam đang phân định ơn gọi, bạn cứ mạnh dạn tìm hiểu để thấy Thiên Chúa muốn mình bước vào con đường nào. Ơn gọi nào cũng cao quý. Ước gì chút phân biệt trên đây giúp bạn mạnh dạn dấn thân theo Chúa. Thánh Charles de Foucauld chia sẻ rằng: “Không ai chọn cho mình một ơn gọi, ta phải đón nhận ơn gọi và cố gắng để nhận ra ơn gọi. Ta phải lắng nghe tiếng Chúa gọi để nhận ra một dấu hiệu của ý Chúa. Và một khi đã nhận ra ý Chúa, cần phải làm theo luôn luôn mặc dầu có thế nào và phải trả giá đắt bao nhiêu.”[4] Trong khi đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng nhắn với người trẻ chúng ta: “Hôm nay Thiên Chúa tiếp tục mời gọi tha nhân theo Ngài. Chúng ta không nên chờ tới khi hoàn hảo rồi mới quảng đại thưa tiếng xin vâng. Đừng sợ hãi về những giới hạn và tội lỗi của chúng ta, nhưng thay vào đó, hãy mở tâm hồn trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Hãy lắng nghe tiếng gọi này, hãy phân định sứ mạng của từng người trong Giáo Hội và thế giới, và sau cùng hãy sống tiếng gọi ấy trong ngày hôm nay mà Thiên Chúa trao cho chúng ta.” (Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2018).
Có hai con đường chính mà người muốn đi tu có thể bước nào: Tu triều hoặc tu dòng.[5] Nếu ai muốn làm linh mục, thuộc về giáo phận, thì chọn vào chủng viện để học làm linh mục (chỉ dành cho nam). Nếu ai muốn nên người tu sĩ, cả nam lẫn nữ, đều có thể chọn một nhà Dòng nào đó để bước theo Chúa Giêsu trong khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Chúng ta nói “người ấy muốn”, nhưng trên hết, Thiên Chúa muốn người ấy trước. Do đó, ơn gọi luôn đến từ trên cao, vang vọng tiếng mời người ấy đi theo Đức Giêsu. Khi người nào nghe được tiếng ấy, nếu họ đủ can đảm và yêu mến, đời tu sẽ mở ra với họ.
Chúng ta thấy Giáo hội và Xã hội lúc nào cũng cần người tu sĩ, cần linh mục dòng và triều. Họ là chứng nhân sống động của Thiên Chúa và Nước Trời. Không có người đi tu, nghĩa là, Giáo hội đang chết dần, chết mòn. Khi đó, người ta xa cách với ơn cứu độ. Không thể tưởng tượng được nếu thế giới không còn linh mục, thiếu vắng người tu sĩ. Dĩ nhiên, vai trò của hôn nhân gia đình vẫn quá quan trọng, đồng thời, ơn gọi cũng không thể thiếu vắng trong mọi thời. Tắt một lời, Giáo Hội khẳng định rằng: “Giáo Hội không thể nào từ bỏ đời thánh hiến được, bởi vì nó biểu hiện cách hùng hồn bản chất Hiền Thê thâm sâu của Giáo Hội.” (Tông Huấn Vita Consecrata, số 105).
Do đó, ước gì mỗi người tiếp tục xin Thiên Chúa sai những thợ tốt lành ra gặt lúa về (x. Mt 9,32–38). Cầu nguyện cho nhiều người trẻ dám can đảm bước vào ơn gọi đặc biệt này: nên tu sĩ hoặc làm linh mục triều. Để với những điều đặc biệt trên, cuộc đời người tu sĩ hoặc linh mục triều luôn hạnh phúc bình an, luôn vui tươi dấn bước. Hy vọng tu triều và tu dòng vẫn còn đặc biệt hấp dẫn nhiều người trẻ, phải không bạn?
Nguồn: hdgmvietnam.com
CÂY THÁNH GIÁ - BIỂU TƯỢNG THÁNH THIÊNG CÔNG GIÁO
Trong Ngày Chúa Giêsu chết, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh của người công giáo, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, bao phủ lấy chúng tôi: đó là Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô.
Cây thập giá và Cây Thánh Giá khác nhau một trời một vực! Cây thập giá là do lòng hận thù của con người nghĩ ra, còn Cây Thánh Giá là do sáng kiến cứu chuộc của tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với loài người.
Cây thập giá là hai miếng gỗ gồ ghề, nặng nề, trần trụi, bắt chéo vào nhau như hình chữ Thập, dùng làm hình khổ rùng rợn để giết người một cách quá dã man, do người ngoại giáo độc ác bày ra để hành hạ và giết chết một cách vô cùng tàn nhẫn những ai họ cho là phạm tội ghê gớm, những kẻ nô lệ vô phước nằm trong tay họ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cây thập giá nầy đã được Chúa Giêsu, cách đây hơn 2000 năm, vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó.
Nhưng lạ lùng thay! Kể từ ngày Chúa Giêsu của người công giáo chúng tôi dang tay chịu đóng đinh chết trên cây thập giá nầy, thì cây thập giá nầy được trở thành Cây Thánh Giá huy hoàng, rực rỡ và vô cùng cao trọng.
Đây là một hiện tượng lạ lùng nhất trên trần gian nầy, hiện tượng mà loài người không thể nào cắt nghĩa được, nếu không được cắt nghĩa bằng đức tin.
Trước, thì cây thập giá quá đen tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá vinh quang!
Trước, thì cây thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi chỗ đê hèn nhục nhã, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được đặt khắp nơi, được đặt nơi trang trọng nhất, được đặt trên đỉnh núi cao nhất, được đặt dươi lòng biển sâu nhất.
Trước, thì cây thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu.
Trước, thì cây thập giá chỉ được làm bằng gỗ sần sù lởm chởm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng những thứ kim loại đắt giá nhất thế giới.
Vì sao người công giáo dành cho Cây Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế?
Vì sao người công giáo dành cho Cây Thánh Giá địa vị ngang hàng như Thiên Chúa vậy?
Vì trên Cây Thánh Giá, có Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người, vì quá yêu thương loài người, nên đã nộp mình chịu chết đóng đinh để cho loài người được sống, được sống hạnh phúc chân thật, và được sống như vậy một cách dồi dào.
Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nếm chịu muôn vàn đau khổ ê chề:
đau khổ bên ngoài: bị lột hết áo quần ra, không một mảnh vải che thân.. ..;
đau khổ thể xác: từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chỗ nào là chẳng xể xài
rách nát, cùng bày xương ra.. ..;
đau khổ tinh thần: bị sỉ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ.. ..;
đau
khổ tâm hồn: thấy trước đủ mọi thứ tội lỗi tầy trời do con người phạm,
thấy trước đủ mọi thứ vong ân bội nghĩa phát xuất từ con người.. ..;
đau
khổ tình cảm: thấy những người thân yêu của mình, nhất là Mẹ mình, đang
đứng dưới chân thập giá mà không làm gì được cho Mẹ thân yêu...
Nhưng
dù ngụp lặn trong đau khổ, Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá vẫn tỏ ra vô
cùng nhẫn nhục, đầy lòng tha thứ một cách anh hùng, vui lòng chịu khổ để
làm trọn Thánh Ý của Chúa Cha và để tỏ lòng yêu thương loài người vô
bên vô bờ.
Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu
là Đấng vô tội, nhưng đã bị vu cáo;
là Đấng Công Chính, nhưng đã bị kết án;
là Đấng vô cùng thánh thiện, nhưng đã bị đày ải;
là Vua trên trời dưới đất, nhưng đã bị hành hạ nhục nhã, bị đóng đinh chết tất tưởi;
là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã bị thóa mạ, bị dày đạp, bị từ chối;
là Ánh Sáng, nhưng đã bị tối tăm vây phủ;
là Đấng vô cùng cao sang, nhưng đã bị trần truồng nhuốc hổ, treo mình chết trên hai miếng gỗ;
là Sự Sống, nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng;
là Sự Chết, nhưng cũng là sự Sống Lại.
Vì thế, thánh Gioan Kim-Khẩu ca tụng Cây Thánh Giá hết lời:
“Cây Thánh Giá
là hy vọng của người kitô-hữu,
là sự sống lại của kẻ chết,
là sự hướng dẫn cho kẻ mù,
là cây gậy cho người què,
là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ,
là sự kềm hãm những kẻ giàu sang,
là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa,
là sự chiến thắng ma quỷ,
là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên,
là bánh lái cho những người vượt sóng,
là cửa biển cho những kẻ đi xa,
là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm.”
Trong kinh A RẤT THÁNH GIÁ, người công giáo sung sướng kính chào Cây Rất Thánh Giá
“là Cây đã chuộc muôn dân đặng rỗi,
là Cây cho kẻ có phước đặng phần vui mừng,
là Cây cho kẻ có tội đặng lòng trông cậy,
là Cây cho kẻ yếu đuối đặng nhờ sức mạnh,
là Cây cho kẻ khốn nạn đặng sự an lành,.. ..
là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình...
là Cây đưa những kẻ tin chúng ta qua khỏi gian nan đến Nước Thiên Đàng.”
Cây Thánh Giá tóm lược tất cả những tín điều vô cùng cao siêu của Đạo công giáo:
tín điều Một Thiên Chúa,
tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi vô cùng sâu thẳm,
tín điều Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Nhập Thể, nhập thế,
tín điều Cứu Chuộc!
Cây Thánh Giá dạy người công giáo nhiều bài học tín lý và luân lý:
Hình thẳng của Cây Thánh Giá: phải đi lên để yêu mến Chúa;
Hình ngang của Cây Thánh Giá: phải đi ngang để yêu thương mọi người, không trừ ai,
ngay cả kẻ thù nghịch cũng xin cho họ được mọi sự lành.
Tay Chúa Giêsu giăng ra trên Cây Thánh Giá: dạy người ta ôm lấy tất cả mọi người, không xua trừ ai; tha thứ tất cả mọi xúc phạm lớn nhỏ, không trừ xúc phạm nào.
Tay Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá là để đền những tội do tay người ta thường phạm, như biếng nhác, cắp trộm, tức giận, dâm ô; và treo cao gương cho người ta biết sống cầu nguyện, siêng năng làm việc, yêu thương giúp đỡ, rộng rãi bố thí.
Chân
Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá là để đền những tội do đôi
chân người ta thường phạm, như đi vô ích, đi có hại, đi phạm tội; và
treo cao gương cho người ta đi cầu nguyện, đi học hỏi thêm những điều
tốt, đi làm việc đạo đức, đi làm việc bổn phận, đi làm việc hữu ích, đi
làm việc bác ái, yêu thích nơi gia đình mình đang ở.
Tim Chúa Giêsu
bị đâm thủng là để dạy người ta lo diệt lửa dục tình, lo thắp sáng lửa
nhiệt thành làm việc thiện, và đặc biệt đối với người công giáo, lo yêu
mến Phép Thánh Thể, yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, đừng sống bạc nghĩa vô
ơn đối với Chúa hằng yêu thương loài người vô bờ vô bến.
Bốn cây đinh đóng Chúa Giêsu vào Cây Thánh Giá là để dạy người ta lo xa lánh bốn điều dẫn đưa người ta đi trên con đường tội lỗi, đó là thói quen xấu, lui tới dịp tội, ao ước thỏa mãn dục vọng, sợ dư luận; và để khuyên người ta lo tập bốn điều dẫn đưa người ta đi trên con đường nhân đức, đó là thói quen tốt, chu toàn các việc bổn phận của mình, hy sinh hãm mình, sống can đảm trước dư luận.
Thánh Casimirô, mỗi lần có dịp nhìn lên Cây Thánh Giá, thì quá cảm động, nước mắt trào tuôn!
Người Công giáo Cây Thánh Giá trong nhà, trong phòng.
Người Công giáo đeo Cây Thánh Giá nơi ngực, nơi cổ.
Người Công giáo làm Dấu Thánh Giá trên thân xác mình.
Người Công giáo năng nhìn lên Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá.
Và nhất là, Người Công giáo luôn tìm cách mang Thánh Giá trong lòng mình, trong tâm hồn mình.
Thân chào những ai đã vô tình hay bị bắt buộc, đã hạ và đập tan Cây Thánh Giá Đồng Chiêm!
Và cũng thân chào những ai đã cố tình hay bị bắt buộc, đã ra lệnh hạ và đập tan Cây Thánh Giá Đồng Chiêm!
Bởi vì tất cả chúng ta, Quý Vị và chúng tôi, thế nào đi nữa – tôi hy vọng thế! – cũng sẽ gặp nhau lại trên Nước Thiên Đàng, Nước Tình Yêu Vô Bờ Vô Bến của Chúa Giêsu Cứu Thế đã Tử Nạn trên CâyThánh Giá và đã Phục Sinh vinh hiển để cứu chuộc mọi người.
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
Theo quan niệm thông thường, sống và chết là hai cõi âm dương cách biệt. Người không có tín ngưỡng cho rằng chết là hết. Vì thế, một người đã nhắm mắt xuôi tay là ra đi mãi mãi; một người đã nằm xuống là ngàn thu vĩnh biệt. Nếu thân nhân bạn hữu có nhớ ngày kỵ giỗ, âu cũng là để ôn lại kỷ niệm về một kiếp người.
Đức tin Kitô giáo nói với chúng ta, sống và chết không hẳn là chia ly đôi ngả. Chết không phải là hết nhưng vẫn còn. Nếu cuộc đời là một chuyến đi đường dài thì lúc nhắm mắt là khi họ tới đích. Nếu cuộc sống là nô dịch gian nan thì lúc xuôi tay là khi con người được an nghỉ. Trước thi hài người vừa nằm xuống, người có đức tin chỉ nói lời tạm biệt vì tin rằng sẽ được gặp lại nhau trong cõi vĩnh hằng.
Trong những ngày cử hành cuộc khổ nạn và tưởng nhớ cái chết của Đức Giêsu, chúng ta hãy cùng suy niệm về sự sống, sự chết.
Sống và chết đang cùng hiện hữu nơi một kiếp người
Nhờ đức tin mà chúng ta có một cái nhìn mới mẻ về kiếp nhân sinh: nơi cuộc đời con người, sống và chết hoà quyện với nhau. Trong sự chết bừng lên sự sống; nơi sự sống, sự chết luôn hiện hữu. Sống và chết cùng song hành gắn bó với nhau.
Có nguời định nghĩa cuộc sống là một hành trình để tiến tới… cái chết. Thật thế, mỗi ngày sống là đời ta ngắn lại; mỗi hoàng hôn ta mất đi một ngày. Ngày đầu xuân, người lạc quan thì chúc nhau thêm tuổi; người bi quan lại thấy cái chết đến gần hơn. Sống là đang đi dần tới cõi chết. Vì vậy mà người ta gọi người già là tuổi “gần đất mà xa trời ”.
Thế nhưng, ngay trong sự chết, chúng ta lại nhìn thấy sự sống. Khi xác định kiếp người như lá rụng về cội, chúng ta lại thấy mỗi ngày qua đi làm cho ta tới gần Chúa hơn. Khi một người nhắm mắt xuôi tay lại là lúc người ấy bước vào cuộc sống mới. Vì thế người có đức tin gọi người già là tuổi “gần trời mà xa đất”.
“Người già thấy sự chết trước mặt, người trẻ thấy sự chết sau lưng”, chết và sống luôn hiện hữu trong đời một con người. Nếu chúng ta có được sự sống, là nhờ sự hy sinh của bao người. Trước hết, ta sống là nhờ cha mẹ và người thân. Quả vậy, chúng ta lớn dần lên trong sự vất vả một nắng hai sương của cha mẹ. Từ những đêm thức trắng lo toan, đến những tần tảo quanh năm suốt tháng để ta được nuôi dưỡng nên người. Trong nụ cười của chúng ta có sự chết (hy sinh) của cha mẹ. Trong niềm vui của chúng ta có đau khổ của đấng sinh thành. Và thế rồi, dầu cha mẹ có khuất núi, thì các ngài lại đang hiện diện nơi con cháu là chúng ta, vì chúng ta mang trong mình huyết nhục cũng như sự hy sinh của các ngài.
Sự sống của chúng ta còn được tồn tại nhờ biết bao loài thảo mộc cũng như động vật làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày. Những loài thảo mộc và động vật ấy đã chấp nhận chết đi để bữa cơm của chúng ta ngon hơn, vui hơn và nhờ đó chúng ta được sống.
Nghĩ đến sự hy sinh của cha mẹ giúp ta hãy sống với tâm tình hiếu thảo tri ân.
Nghĩ đến sự chết của muôn loài giúp ta tôn trọng và biết ơn thiên nhiên vạn vật.
Sống và chết là một cuộc tranh đấu không ngừng
Vì sự sống và sự chết cùng song hành nơi con người, nên cuộc đời là cuộc giao tranh liên lỷ khôn nguôi giữa sự sống và sự chết. Ranh giới giữa sự sống và sự chết thật quá mong manh: người ta có thể biến từ người sống thành người chết trong một tích tắc. Giao tranh “sống – chết” cũng là cuộc giao tranh giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Một người tốt có thể trở thành kẻ sát nhân vì một cơn nóng giận không kiềm chế nổi mình. Một người hiền lành có thể trở nên kẻ hung dữ khi thiếu suy nghĩ khôn ngoan. Khoảng cách giữa tốt và xấu mỏng manh là thế. Cảm nghiệm được sự nghiệt ngã của cuộc tranh đấu ngay trong chính bản thân mình, thánh Phalô đã thốt lên: “Tôi thật là một người khốn nạn ! ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24). Đích điểm của con người nói chung và của người tín hữu nói riêng là vươn tới sự sống, tiêu diệt sự chết, vươn tới cái thiện, từ bỏ gian manh.
Trong cuộc chiến cam go này, chúng ta có thể chiến thắng nhờ noi gương Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đến để phục vụ con người và nói với họ về tình thương của Chúa Cha. Người đã làm mọi sự để Chúa Cha được tôn vinh. Thật kỳ diệu biết bao khi suy niệm về hình ảnh Thiên Chúa làm người. Qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã đến gặp gỡ con người, trở nên bạn hữu với họ, lau khô nước mắt họ và tặng cho họ nụ cười bình an.
Khi bước ra khỏi nấm mộ vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết. Người cũng chiến thắng sự thù ghét của những người đã lên án tử cho Người. Người không oán thù nhưng tha thứ và cầu nguyện cho kẻ giết mình; Người không hờn căm nhưng một niềm phó thác nơi Chúa Cha. Đức Giêsu là mẫu gương cho mỗi người chúng ta.
Chúng ta sống nhờ sự chết của Con Thiên Chúa
Đức tin Kitô giáo còn dạy: chúng ta sống là nhờ sự chết của Đức Kitô Giêsu. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Khi tuyên bố điều đó, trước hết Đức Giêsu muốn tiên báo cái chết của Người. Người như hạt lúa, chấp nhận hy sinh vì sự sống của nhân loại. Người chết để cho người khác được sống. Máu của Người đổ ra để cho “nhiều người được tha tội”. Đàng khác, Đức Giêsu cũng muốn qua hình ảnh hạt lúa mục nát để nói về sự hy sinh của mỗi tín hữu, vì nước trời mai sau: “Ai yêu quý mạng sống mình ở đời này, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Như thế, một đàng, người tín hữu sống nhờ sự chết của Đức Giêsu, đàng khác, trong cuộc sống làm người, họ như hạt lúa mì chấp nhận hy sinh mỗi ngày để đem niềm vui cho tha nhân, cùng với họ hướng tới đời sau. Triết lý hạt lúa bình dị mà rất sâu xa, vì nó cổ võ sự cao thượng của con người, hy sinh bản thân vì người khác, hy sinh đời này để được sống đời sau. Mỗi ngày, chúng ta được nuôi dưỡng bằng Bánh Thánh Thể, là tấm bánh được làm nên bởi những hạt lúa mì chịu nghiền nát, được thánh hiến do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhờ việc rước Thánh Thể, nơi chúng ta có sự sống của Chúa, Đấng yêu thương và hiến mình cho nhân loại. Khi cử hành Thánh Thể là chúng ta loan truyền sự chết của Đức Giêsu, đồng thời chúng ta tuyên xưng vững vàng Người đã sống lại và sẽ đến trong tương lai (x. 1 Cr 12,26).
“Khi nào các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). “Tôi Hằng Hữu”, đó là danh Thiên Chúa được mạc khải cho ông Môi-sen trong câu chuyện bụi gai (x.Xh 3,14). Thật là một nghịch lý! vinh quang Thiên Chúa không tỏ hiện vào những lúc huy hoàng theo quan niệm thông thường của con người. Ngài tỏ mình trong một khung cảnh trái ngược, nơi một con người trần trụi, bầm dập, đau khổ, cô đơn và bị phỉ nhổ. Chính vào lúc này, Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài. Giờ phút đau thương trên đồi Can-vê lại là một cuộc phong vương hùng vĩ của Thiên Chúa làm người. Nét đẹp của hy sinh được thể hiện qua đau khổ. Bằng chứng của tình yêu được minh chứng qua thập hình. Đức Giêsu đã yêu thương con người và yêu thương đến cùng (Ga 13,1). Chính nơi thập giá, chúng ta nhận ra, chỉ có Thiên Chúa mới thể hiện tình yêu thương đến như thế. Đức Giêsu đã thực hiện điều Người đã nói về tình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Những lễ nghi Tuần Thánh giúp ta suy tư về sự sống và sự chết. Vâng, chính từ cạnh sườn bị đâm thâu qua mà chúng ta được tái sinh. Chính từ trái tim mang thương tích mà chúng ta được chữa lành. Khơi nguồn từ mầu nhiệm phục sinh, nơi sự sống của tôi có sự chết của Chúa. Nơi cuộc đời của tôi có Chúa hiện diện. Chúa ở với tôi để nâng đỡ tôi trong cuộc giao tranh khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thánh thiện và tội lỗi. Đáp lại lời Chúa dạy, tôi phải chết đi mỗi ngày, cụ thể bằng việc từ bỏ những khuyết điểm, sống quảng đại hơn với mọi người, thực hành tình yêu thương đối với anh chị em. Sự chết sẽ bị đẩy lùi và sẽ bị tiêu diệt, nếu ta chấp nhận để cho ánh sáng huy hoàng của Đấng Phục Sinh chiếu rọi trên chúng ta.
Tuần Thánh năm 2011
Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên
MÀU TÍM – MÀU CỦA ÂN SỦNG.
Tháng
ngày mãi dần trôi theo nhịp sống tuần hoàn của trái đất và con người
được Thiên Chúa tạo dựng nên để sống, hưởng nguồn hạnh phúc ở đời này và
mưu tìm hạnh phúc ở đời sau trên quê trời. Sự sống ở đời này chỉ là phù
vân, mong manh nhưng ai ai cũng quý chuộng sự sống và rất ư sợ chết.
Thật vậy, không một người nào có thể kéo dài đời mình thêm dù chỉ một
gang tay, sống hay chết đều do Chúa định đoạt, Chúa gọi ai thì người ấy
về cùng Chúa, không ai làm chủ mạng sống của ta ngoài một mình Thiên
Chúa. Chúng ta đang sống trong một thế giới khoa học phát triển, thời
đại 4.0 vì thế con người đi tìm kiếm mọi phương thế để làm sao tăng tuổi
thọ, kéo dài sự sống. Nhưng “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh
giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc
đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi”(Tv 90, 9 – 10). Khi tiếng loa
hiệu lệnh Chúa gọi thì không ai trốn chạy và lúc ấy mọi sự chỉ là phù
vân, duy có linh hồn ra trước tòa phán xét của Chúa mà thôi.
Sự sống đời này biết là tạm bợ phù vân, ấy mà con người mãi chạy theo
tiền tài, danh vọng không chăm lo cho phần rỗi linh hồn, thật là một sự
mất mát thua thiệt cho linh hồn. Chính vì thế, Giáo hội mẹ chúng ta đã
khôn ngoan dành trọn tháng 11 để cầu nguyện cho Các đẳng linh hồn là
những ông bà, cha mẹ và người thân yêu đã được Chúa gọi về trước chúng
ta, đôi khi chưa chuẩn bị đủ đèn dầu để đón chờ chàng rể đến, vì sự
thiếu chuẩn bị nên không được hưởng nếm hạnh phúc trọn vẹn bên Chúa nên
họ cần đến con cháu những người còn sống ở trần gian hãy siêng năng xin
lễ, cầu nguyện, hy sinh cho họ để mau được sum họp bên Chúa muôn đời.
Tháng 11, tháng của ân sủng dành cho Các đẳng linh hồn, tháng của màu áo
tím, màu áo hy vọng cậy trông đến lòng thương xót Chúa. Có người quan
niệm màu tím là màu tang chế, u buồn ảm đạm…không thích màu tím bởi họ
sợ điều không may đến với họ và hiển nhiên màu tím đó là màu của sự
chết. Những người chưa tin vào Thiên Chúa thì đối với họ chết là hết,
chỉ còn nấm mộ cỏ xanh um tùm, hay họ nghĩ sẽ được đầu thai thành một
con vật khác hay linh hồn vất vưởng muôn nơi, họ không có niềm tin về
Thiên Chúa là Đấng hằng sống vĩnh hằng. Riêng người Công giáo chúng ta
chết là một cuộc trở về cùng Chúa, Đấng ta hằng mong đợi. Chết không mất
đi nhưng chỉ đổi thay, ta bỏ trần gian để về bên cung lòng Thiên Chúa
và tận hưởng nguồn vui nơi Chúa. Những ai biết trước và khôn ngoan thì
lo tìm kiếm nước Thiên Chúa qua những việc làm như: mến yêu tha nhân,
chia sẻ cho người nghèo và nhận ra hình ảnh Thiên Chúa là những anh chị
em xung quanh mình để qua đó thể hiện đức ái trọn hảo ngay chính trần
gian hôm nay, và điều này thật khó vì thế gian muôn màu cạm bẫy không dễ
cho chúng ta lướt thắng nếu không bám vào ơn Chúa, biết mình mỏng giòn
để cậy trông vào ơn Chúa giúp. Sống đức ái qua việc nhớ và cầu nguyện
cho Các đẳng linh hồn là điều đẹp lòng Thiên Chúa vì các linh hồn không
tự cứu chính mình được, cần nhờ đến những người còn sống xin lễ, dâng
các việc hy sinh để cầu nguyện cho các linh hồn. Ước gì ngày sống của
mỗi người chúng ta luôn nhớ đến các đẳng linh hồn và cầu nguyện cho các
ngài thì thật tốt biết bao. Hiệp thông với các đẳng linh hồn chúng ta sẽ
không bị thua thiệt, bởi sau một thời gian ngắn chịu khổ nhục các ngài
sẽ được vinh dự lớn lao bên Chúa chắc hẳn sẽ hằng chuyển cầu cho chúng
ta trước tòa Chúa uy linh.
Xã hội phồn thịnh, con người hiện đại hóa để cùng hòa nhịp sống với đời,
vì thế đôi khi làm cho con người kiệt sức mà quên đi cốt lõi cái đạo lý
báo hiếu cho các bậc sinh thành dưỡng dục nên ta. Lúc nhỏ ở trong mái
ấm gia đình, khi lớn lên thì lo sự nghiệp tương lai, xa gia đình và một
lúc nào đó bên cạnh ta những người thân yêu đã rời xa ta, nỗi buồn sẽ
vơi đi và cứ thế ta không còn nhớ đến ngày ông bà cha mẹ qua đời, không
xin lễ hay làm giỗ cho các ngài, nếu có chăng cũng chỉ là hình thức
suông. Sự lãng quên của con cái cháu chắt làm cho ông bà cha mẹ chúng ta
không hưởng được ân sủng của Thiên Chúa. Có những linh hồn ông bà, cha
mẹ, ân thân nhân không được ai nhớ đến, thật đáng thương vô cùng. Các
linh hồn rất linh thiêng, đừng quên các linh hồn trong Thánh lễ là điều
cần hơn hết. Chính Thánh lễ là nguồn mạch mọi ân phúc mà ta cùng hiệp
với hy tế của Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa Cha, kêu cầu lòng thương
xót hải hà của Thiên Chúa, nhìn đến mà tẩy sạch các lỗi phạm còn thiếu
của các linh hồn nơi luyện ngục, bởi khi ở trần gian chưa sống xứng đáng
là con cái Thiên Chúa để khi chết phải mang theo. Thật vậy, niềm tin
Kitô giáo chúng ta là vững tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng
sống, chính cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu và sự Phục sinh của
Chúa là bảo chứng cho chúng ta vào sự sống đời đời mai sau. Tin như thế
để rồi nhắc nhớ phận làm con cháu hãy báo hiếu ông bà, cha mẹ khi các
ngài đã khuất bóng, dâng những Thánh lễ và nguyện cầu cho người thân yêu
của chúng ta, để họ được tẩy sạch mọi sự tội khi ở trần gian vướng mắc,
ngõ hầu được Chúa dủ thương và được sống vui bên Chúa trên thiên đàng.
Hội Thánh dành cả tháng 11 để mời gọi con cháu tưởng nhớ và cầu nguyện
đặc biệt cho các tín hữu đã qua đời. Ta nhớ đến các linh hồn cũng là
cách cho ta ý thức về con người tội lỗi của chúng ta để xin Chúa tha thứ
mọi lỗi lầm của chúng ta, dù cho tội chúng ta có đỏ như son thì tình
thương của Chúa bao la dạt dào hơn biển cả. Vững tin vào Chúa và kêu xin
Chúa cứu giúp thứ tha tội lỗi chúng ta hầu mưu ích cho bản thân và các
linh hồn. Thật vậy, đời sống con người “Như cỏ đồng trỗi mọc ban mai”
rất là mỏng manh, kiếp sống phù du nay còn mai mất héo tàn bất ngờ không
ai biết trước. Vì thế hãy đếm tháng ngày mình sống và hiểu rằng thân
trần truồng sinh từ lòng mẹ thì khi về với Chúa cũng vậy, không mang
theo được gì. Hiểu như thế để biết và lo mưu cầu lợi ích cho phần hồn
của mình. Thời gian thật vắn vỏi lắm ai ơi! Nay bạn mai tôi không biết
trước vì thế hãy sống cho có ích đời này lẫn đời sau, bằng những gì mà
Chúa dạy qua Hội Thánh và các giáo huấn. Thánh Tôma Aquinô cho ta biết:
Không có của lễ và sự hy sinh nào cứu các linh hồn nơi luyện ngục hiệu
quả bằng Thánh lễ Misa vì thế hãy năng tham dự Thánh lễ và nhường Thánh
lễ ấy cho các đẳng linh hồn. "Mỗi khi Thánh lễ được cử hành ở trần
gian thì trên trời các Thánh sẽ xuống mở cánh cửa luyện ngục để đưa các
linh hồn về ngự bên tòa uy linh của Chúa" (Lời dạy của Thánh
Chrisôtômô). Thật vậy, các việc làm của ta nơi trần gian nếu được làm
với ý chỉ lành thánh và sự tích cực của ta thì Thiên Chúa sẽ không bỏ
quên lòng quảng đại của ta, Chúa sẽ đoái thương đến lời nguyện của ta và
ban thưởng thiên đàng cho các linh hồn ta cầu xin. Hãy tập cho có thói
quen lưu tâm đến nhau và cầu nguyện cho nhau đó là cách thức và phương
thế hữu hiệu ta đang sống hiệp thông với các Thánh trên trời. Nhớ đến
các linh hồn qua chuỗi hạt Mân côi để xin Mẹ Maria cầu cùng Chúa Giêsu
Con yêu của Mẹ thương và ban nước trời cho các linh hồn đã một lòng tôn
kính Mẹ của Chúa. Mẹ Maria hứa sẽ không khuất phục sự cậy trông của ta ở
nơi Mẹ qua tràng hạt mà Mẹ muốn ta quy hướng về Mẹ.
“Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó”. Đây là lời của Chúa
Giêsu muốn hết thảy con cái Chúa sẽ được nếm hưởng hạnh phúc cùng Chúa
trên thiên đàng, nơi ấy có các Thánh và Thiên thần hằng đêm chầu phụng
sự Chúa và nơi đó không còn tiếng khóc than và buồn sầu nhưng là niềm
vui muôn đời. Ước chi mọi người ai cũng được nếm hưởng niềm hạnh phúc
viên mãn ấy với Chúa là Đấng ta hằng cậy trông ở cùng. Để được như thế
mời gọi ta hãy sống trọn vẹn giây phút hiện tại và lo tìm kiếm nước
Thiên Chúa để khi Chúa gọi thì ta đã sẵn sàng và mau mắn bước ra trình
diện trước tôn nhan Chúa những nén bạc mà ta đã sinh lợi nơi trần thế và
Chúa sẽ dang tay rộng mỡ “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào mà
hưởng vương quốc dọn sẵn cho ngươi từ tạo thiên lập địa”.
Con kính chúc quý Bà và chị em bước vào tháng 11, tháng Các đẳng linh
hồn thật nhiều công phúc và ân sủng của Chúa để nhường lại cho các linh
hồn mà ta cần nhớ đến. Nhớ để thông công và nhớ để các linh hồn được
diện kiến tôn nhan Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không mất phần ân phúc
trước tòa Chúa khi ta được Chúa gọi về. Hãy lập công trạng hôm nay để
mai sau ra trước tòa Chúa ta sẽ không khỏi bị Chúa phán xét: “Ta không
hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian
ác!” (Mt 7,23). Nguyện xin Chúa nhớ đến các linh hồn quý Bề trên, quý
Bà, chị em trong Hội dòng chúng ta đã qua đời cùng Các đẳng linh hồn,
những linh hồn chết trong dịch bệnh Covid, xin lòng nhân từ của Chúa
đoái thương và cho hết thảy các linh hồn về họp hoan muôn đời bên Chúa
trên thiên đàng.